- Hoa Đáng rốt cuộc vẫn là hậu duệ của Bắc Nguyên, tuy nghèo rớt mồng tơi nhưng dã tâm vẫn không nhỏ. Lâu nay bị kẹp giữa Đại Minh, Thát Đát, NgõaThứ thì hắn vẫn an phận, bây giờ vừa mới nghe nói có thể áp đảo hai bộ còn lại đã lập tức muốn xây dựng lại đế quốc Mông Cổ trong mộng.
Hắn rũ áo đứng dậy, nói tiếp:
- Hôm nay ngươi cùng Đóa Nhan Tam Vệ thương thảo rất tốt! Những yêu cầu vô lễ phải cự tuyệt ngay, Đại Minh ta há để cho người áp chế? Từ xưa, Đại Minh ta là nước có thế lực lớn nhất, chế ngự Bắc Lỗ, xua đuổi Tây phiên; không dùng thói tệ hòa thân nhằm hòa hiếu kết giao của Hán Đường, không như Đại Tống xưng thần cắt đất, cũng không lấy lễ nghi huynh đệ đối đãi với nước địch. Hoa Đáng nho nhỏ mà muốn kết hôn với ngự muội...... Hừ!
Cùng chung giường chung gối với người mình không thích thật là những ngày tháng cực kỳ khổ sở! Trẫm đã cảm nhận sâu sắc cái nạn này rồi, há lại chịu để cho chính bản thân ngự muội cũng phải gánh chịu nỗi khổ này sao? Trẫm là đàn ông nên còn có thể tìm được cô gái mình thật lòng thật dạ yêu thích, còn Vĩnh Phúc thì không thể làm chủ chính mình, nàng sẽ phải làm sao?
Tuy trẫm là một vị hoàng đế ẩu tả nhưng cũng biết thương yêu em gái. Nếu như chính Vĩnh Phúc muốn lấy chồng, chỉ cần hai người tình đồng ý hợp là tốt rồi, trẫm bất kể hắn là vương hầu công khanh hay là dân thường áo vải. Còn nếu như nàng không muốn xuất giá, cho dù Hoa Đáng chắp tay dâng đất đai cả ba vệ, trẫm cũng không mang em gái đi đổi!
Dương Lăng mỉm cười tâu:
- Hoàng Thượng! Dã tâm của con người luôn luôn không ngừng tăng trưởng theo sự lớn mạnh của quyền lực. Ban đầu Hoa Đáng chỉ có tham vọng là một góc Liêu Đông, bây giờ nghe nói có thể thống nhất được thảo nguyên, khi đã có thể đứng trên cao, tự nhiên ánh mắt tham lam của hắn cũng nhìn ra xa hơn.
Về dã tâm của người Man, Hoàng Thượng nói rất đúng. Mặc dù bọn họ không phải dân tộc du mục, đã xoay sang học tập người Hán làm ruộng dệt vải nhưng cũng không thay đổi được bản tính thích xâm chiếm đất đai của bọn họ. Bọn họ ở lệch một bên thảo nguyên, trên có các nước La Sát, còn ba mặt trái, dưới, phải lại bị các vệ Đại Minh ta bao vây. Một khi thống nhất thảo nguyên sẽ không có cách nào cung cấp đủ nhu yếu phẩm cho dân số gia tăng, lúc đó nhất định họ phải xâm chiếm bên ngoài. Cho nên thần mới khuyên Hoàng Thượng thừa dịp ba liên minh bộ lạc đang lục đục, hãy mau chóng bình định biên giới phía Bắc, thâu tóm toàn bộ thảo nguyên vào lãnh thổ quốc gia Đại Minh, lưu lại cho con cháu đời sau một giang sơn vững chắc như sắt thép.
Hào khí nổi lên bừng bừng, Chính Đức gật gù tán thưởng, cười nói:
- Đúng lắm! Trẫm muốn lưu lại cho thế hệ mai sau một giang sơn vững chắc như sắt thép...
Chợt nhớ đến chuyện khác, hắn không nén nổi nói bằng giọng hâm mộ:
- Được rồi, Dương thị độc! Nghe nói Ấu Nương tỷ tỷ đã có mang, không biết tháng mấy sẽ sinh?
Nghe nhắc tới việc này Dương Lăng cũng đầy vẻ vui mừng, y mỉm cười đáp:
- Ước chừng giữa tháng tám, vào lúc hoa quế tỏa hương.
Chính Đức ha ha cười to, nháy nháy mắt, vỗ đùi nói:
- Tốt! Nếu như là bé trai ta sẽ nhận làm nghĩa tử, nếu như là con gái ta sẽ nhận làm nghĩa nữ. Chuyện này phải theo lệ ai dành trước là được, không cho người nào được phép tranh cướp với trẫm!
Hắn vỗ tay cười nói tiếp:
- Thật muốn biết khi nghe tiểu hài tử kêu bằng phụ thân sẽ có cảm giác gì nhỉ? Nhất định phải rất vui vẻ!
Dương Lăng giật mình, Hoàng Thượng muốn đích thân làm cha nuôi đứa bé? Ngẫm nghĩ lại, y thấy dường như cũng không có gì xấu, hơn nữa Chính Đức đã mở miệng, ai lại dám xem nhẹ mặt mũi của hắn?
Dương Lăng khẽ cười đáp:
- Trẻ em chưa được tròn trèm một tuổi thì làm sao mở miệng gọi cha được? Hoàng Thượng thân thể cường tráng, tuổi lại như mặt trời mới mọc ở phương đông, tương lai nhất định cũng sẽ con cháu đầy đàn.
Chính Đức mặt mày hớn hở:
- Ha ha! Chỉ hy vọng như thế.
Hắn khoát tay nói tiếp:
- Tạm không nói chuyện này nữa! Đến đây, chúng ta bàn bạc qua chuyện ký kết hiệp ước với Hoa Đáng. Ngươi nghĩ rằng Hoa Đáng có thể đồng ý với những điều kiện do chúng ta đưa ra hay không?
Dương Lăng đáp ngay không chút do dự:
- Nhất định sẽ chấp thuận! Trước tiên, vốn Hoa Đáng và Bá Nhan đã phân tranh không ngừng. Bá Nhan đánh nhau với chúng ta ở nơi này đã gánh chịu tổn thất, nhất định hắn có thể sẽ cướp đoạt lương thực Hoa Đáng để bổ sung cho mình. Thêm nữa, ba bộ Nữ Chân rất phụ thuộcvào Đại Minh, bọn họ thành tâm nương nhờ vào Đại Minh. Lực khống chế của Hoa Đáng bên trong Đóa Nhan Tam Vệ cũng không bằng lực khống chế của Bá Nhan đối với các bộ lạc Thát Đát. Những điều kiện hậu hỉ của chúng ta nhất định khiến cho thủ lĩnh các bộ lạc động tâm, Hoa Đáng không thể không suy nghĩ đến những thực tế này.
Miêu Quỳ cũng đã đến dịch quán. Cũng như Trương Vĩnh, lão cũng thuộc nhóm những người biết rõ chiến sự, lại từng thâm nhập đại mạc, có kiến thức rộng về ba bộ của Mông Cổ. Nghe vậy, lão bèn tham gia:
- Hoàng Thượng! Theo nô tài biết, ngày xưa đế quốc nhà Nguyên phân chia thành ba bộ. Thát Đát là trực hệ hoàng gia, thời gian qua không xem hai bộ khác ra gì. Ngõa Thứ là đại thế lực gần gũi với hoàng tộc vào hàng thứ hai, với lại lúc trước cũng từng nhận chức Thái Sư, từng hùng cứ Thát Đát, dã tâm thực ra cũng không nhỏ.
Mãn Đô Hải từng chinh phạt Ngõa Thứ. Sau khi đánh bại bọn họ, bà ta bèn ra lệnh tòa nhà của thủ lĩnh bọn hắn không được xưng là cung điện, ở trong nhà chỉ được quỳ chứ không được phép ngồi, các quý tộc ăn thịt đều chỉ cho lấy tay xé, không cho phép sử dụng dao nhỏ. Loại sỉ nhục này khiến cho bọn hắn thù hận tộc Thát Đát còn hơn xa việc thù địch Đại Minh.
Cho nên theo ý nô tài, đợi đến khi Bá Nhan, Hỏa Sư xảy ra nội loạn ta liền tụ tập trọng binh từ vệ Ha Mi (thuộc Tân Cương, Trung Quốc) công kích Ngõa Thứ, xua con hổ nhọc mệt này vào thảo nguyên Thát Đát. Vì bãi chăn nuôi và trâu dê, bọn họ sẽ không bỏ qua cơ hội tốt Thát Đát đang nội loạn này, nhất định sẽ không chút do dự tham gia vào cuộc chiến đó. Có thể bọn họ tạo thành thế chân vạc vững chắc, có thể gia nhập vào một phe tấn công phe kia. Theo nô tài phỏng đoán, rất có khả năng bọn họ sẽ chọn Hỏa Sư làm đồng minh. Nếu thế thì sẽ có thể giảm nhẹ áp lực phía đông rất nhiều, giúp cho quân ta ung dung bố trí. Dựa theo kế hoạch của Dương đại nhân, chúng ta sẽ xuất binh thu dọn tàn cuộc, lại thuận thế chiếm hết Đóa Nhan Tam Vệ.
Chính Đức sáng mắt lên, hào hứng hỏi:
- Dương khanh nghĩ như thế nào?
Dương Lăng nhìn lướt qua Miêu Quỳ với vẻ khâm phục, cung tay khen:
- Thực là diệu kế! Chỉ là không biết Ngõa Thứ có còn thực lực đánh với Thát Đát một trận hay không?
Miêu Quỳ vui vẻ tâu với Chính Đức:
- Khi nô tài thâm nhập đại mạc, từng theo hướng tây tiến vào địa bàn Ngõa Thứ. Đội quân của nô tài đã từng giao chiến một trận nhỏ với bọn chúng, ngay lúc đó đã phát hiện bên trong bộ lạc của bọn hắn còn tráng đinh rất nhiều. Hiển nhiên lần này Bá Nhan triệu tập các bộ lạc tấn công Đại Đồng, nhưng người Ngõa Thứ chỉ phái tới những kẻ già yếu, căn bản là chỉ nhằm phất cờ hò reo cho Bá Nhan. Thực lực của bọn hắn mặc dù hãy còn không đủ để đối phó với Bá Nhan, nhưng nếu như Hỏa Sư làm phản, vệ Ha Mi lại gia tăng áp lực, khi đó tình hình chiến sự liền không tránh khỏi triển khai theo hướng chúng ta dự đoán.
Chính Đức cười to, vỗ án bảo:
- Hay lắm! Các khanh mưu lược không hẳn sâu sắc hơn lớp đại thần trong triều, nhưng mà bọn họ chỉ biết gìn giữ cái đã có, không biết sự quan trọng của việc đi ra ngoài. Chỉ cần nhìn điểm này, các khanh đã cao minh hơn bọn họ nhiều lắm đấy.
***
Đàm phán thật sự chính là tiến hành ở bên ngoài, còn đến khi bưng lên mặt bàn cho hai bên thủ lãnh gặp mặt thì cả hai chỉ thực hiện nghi thức ký tên vào văn kiện thôi. Công cuộc đàm phán bí mật giữa Đại Minh cùng Đóa Nhan Tam Vệ đang tiến hành cấp tập, sứ giả hai bên qua lại cửa Đắc Thắng như thoi đưa.
Vào thời Tần Hán Tùy Đường, nơi sản sinh tuấn mã là vùng Hà Sáo, Kỳ Liên, Trương Gia Khẩu, Hô Luân Bối Nhĩ (nay là thị trấn ở Nội Mông). Bây giờ chỉ có Trương Gia Khẩu vẫn còn luôn luôn ở trong tay khống chế của Đại Minh. Đất đai nơi đây rất thích hợp để nuôi dưỡng ngựa tốt, nhưng do Thát Đát thường xuyên đến cướp bóc cho nên mã chính (chính sách dân nuôi ngựa cho quân binh) đã bỏ phế nhiều năm.
Trong thời buổi chiến tranh bằng vũ khí lạnh như hiện nay, ngựa có tác dụng cực kỳ quan trọng, tuyệt đối không thể thay thế được. Tốc độ và sức tấn công của bộ binh khó mà bằng được của kỵ binh. Nếu như hai bên có thực lực tương đương, bên kỵ binh không đợi bộ binh tập kết thành đội hình chiến đấu mà ngay khi đối phương chưa hình thành sức phòng ngự đã tung chiến mã thọc sâu vào đội hình kẻ địch thì chỉ cần một lần xung kích là đã đánh bộ binh tan tác.
Còn nếu như bên bộ binh người đông thế mạnh, bên kỵ binh có thể ngày ẩn nấp đêm xuất hiện tập kích quấy rối, kéo dãn đội hình của đối phương khiến đường tiếp tế của phe bộ binh bị kéo dài, sau đó ung dung cắt đường vận chuyển lương thảo của địch. Khi bộ binh đối phương đã suy sụp trầm trọng vì lương thảo bị cắt đứt thì kỵ binh sẽ chia cắt, bao vây tiêu diệt. Cho dù bộ binh phòng thủ phản kích giành thắng lợi đi chăng nữa, kỵ binh cũng có thể tùy ý chạy xa bất kỳ lúc nào, bộ binh hoàn toàn không có cách nào truy kích.
Cho nên bộ binh đấu với kỵ binh, nếu thắng thì chỉ có thể thắng nhỏ mà bại thì nhất định toàn quân bị diệt; quả thực ở vùng đồng bằng khó mà cùng kỵ binh giáp chiến. Thông thường quân đội Trung Nguyên thiện về xa chiến, phiền một nỗi tuy sức xung kích của chiến xa rất mạnh nhưng nếu phải hành quân cấp tốc trên một quãng đường dài thì lại dễ bị hư hao. Với lại đoàn xe đông đúc ở trên chiến trường khó mà chuyển hướng lẫn quay đầu thoải mái nên tính linh hoạt thua xa kỵ binh. Do đó chiến xa chỉ có thể được sử dụng trong những trận tấn công quyết chiến và dùng để tạo chiến lũy phòng thủ khi địch phản công.
Bây giờ vũ khí nóng vẫn chưa thể hoàn toàn thay thế vị trí của vũ khí lạnh. Dương Lăng ước tính thời gian cần thiết để kiểu súng mới của Nội xưởng đạt tới hiệu quả hoàn mỹ, được sản xuất hàng loạt, rồi trang bị tương đới đầy đủ cho quân đội và huấn luyện sĩ tốt sử dụng thuần thục thì ít nhất cũng phải tốn năm năm. Những việc này có nóng ruột cũng chẳng thể làm được gì. Cho dù bây giờ lập tức có đủ binh khí hiện đại nhất đi chăng nữa thì thời gian bỏ ra để đào tạo sĩ quan huấn luyện, sau đó bọn họ lại huấn luyện đại trà cho binh sĩ không mất đứt một năm rưỡi không xong.
Ngay bây giờ, khi chưa có hàng loạt hỏa pháo tiên tiến, nhẹ nhàng trang bị cho quân đội, khi chưa có thiết bị vận chuyển hiện đại xuất hiện, nếu muốn chiến đấu với dân phương bắc, nhất là khi muốn chủ động tấn công, thì ngựa có tác dụng quyết định. Dương Lăng biết rõ điều này cho nên tiêu điểm đàm phán của Đại Minh đã một mực tập trung vào hạng mục này.
Ngoài da và lông thú thì vật phẩm Đóa Nhan Tam Vệ có thể cung cấp chủ yếu chính là chiến mã, nên không cần phải lo lắng bọn họ sẽ để ý tới điểm đặc biệt này. Nhưng sứ giả Đóa Nhan lại đề xuất người khá giả của tam vệ chỉ chiếm một, hai phần mười, dân thường chiếm hơn bảy tám phần nên yêu cầu phía Đại Minh xuất cảng nhiều gạo cùng mì muối trà hơn, giảm bớt những món xa xỉ phẩm như đồ sứ, lụa là.
Dương Lăng đồng ý. Nhân cơ hội y đưa đề nghị Đại Minh có thể xuất khẩu lương thảo, muối ăn thậm chí tiền đồng cùng dụng cụ bằng sắt và lưu huỳnh diêm tiêu, nhưng bên Đại Minh muốn mua ngựa tốt, lại do Đóa Nhan Tam Vệ phái người dạy cách nuôi dưỡng ngựa và mở thêm khu vực chăn nuôi cho ba vệ tại vùng đất của Đại Minh.
Thông qua buôn bán thu được ngựa cùng các loại vật tư quân sự, hơn nữa mở khu chăn thả trên đất Hán thì càng thuận tiện, vả lại chi phí thực tế sẽ càng tiết giảm. Ở địa bàn Đóa Nhan Tam Vệ xác định vài khu vực nuôi dưỡng ngựa, vừa có thể dùng để bồi dưỡng dân chăn nuôi xuất sắc người Hán, vừa đề phòng một khi Đóa Nhan Tam Vệ bỏ không cung cấp nữa, việc cung ứng ngựa cũng sẽ không đến mức phát sinh vấn đề quá lớn. Đóa Nhan Tam Vệ nhịn không được điều kiện hậu đãi của triều đình nhà Minh dành cho, cuối cùng cũng đồng ý giúp đỡ việc này.
Lượng xuất khẩu lưu huỳnh và diêm tiêu có hạn, với lại chúng chính là vật phẩm tiêu hao, hễ dùng là hết. Người Mông Cổ đã không có bao nhiêu vũ khí tương ứng, cũng không có phương cách phối chế thuốc nổ tối ưu. Xuất khẩu một ít đạn dược cho Đóa Nhan Tam Vệ nhằm một mặt biểu hiện Đại Minh thành tâm liên kết, mặt khác là trên thực tế, triều đình nhà Minh cũng nắm trọn công cụ điều tiết sức phát triển quân sự của Đóa Nhan Tam Vệ vào trong tay. Những vấn đề như thế này đã bày ra ngay trước mắt những thủ lãnh Đóa Nhan Tam Vệ, nhưng hiển nhiên ngay bây giờ bọn họ khó mà phát hiện được mối họa trong đó.
Triều Minh nhập khẩu lông lạc đà, da chồn, nhân sâm, ngựa; xuất khẩu lưỡi cày, xẻng, trâu cày, hạt giống, gạo muối, vải vóc, chảo sắt… Sau một hồi cò kè mặc cả, bớt một thêm hai, rốt cuộc hai bên cũng đạt được thỏa thuận song phương đều vừa lòng. Sau cùng, hai bên bắt đầu thảo luận địa điểm mở những chợ ngựa.
Lần này, triều đình nhà Minh lại vô cùng hào hiệp. Ngoài ba chợ ngựa được mở từ thời Vĩnh Lạc ở ba vệ Nam Quan, Đông Quan, Quảng Ninh, bọn họ lại tăng thêm ở năm cửa quan Phủ Thuận, Bạch Thổ Hán, Khoan Điện, Ái Dương, Thanh Hà. Thời gian họp chợ là hằng ngày thay vì là chợ phiên; nhà Minh sẽ phái binh trú đóng, ấn định giá cả, thu thuế giao thương.
Việc đàm phán đều lấy bàn bạc thảo luận mà quyết, đã kéo dài hết bảy ngày. Lúc này quân của Hỏa Sư vẫn quấy rối ở quan ngoại, nhưng thế công càng lúc càng yếu, đã không hề có chiến ý. Đại quân Bá Nhan đã từ vùng Bắc Bình Thuận trở về nhưng không tụ họp cùng lực lượng của Hỏa Sư, hình như có ý định cuốn cờ xếp trống trở về đại mạc.
Ngày mai chính là ngày thiên tử Đại Minh gặp mặt Đóa Nhan Tam Vệ, đích thân ký kết hiệp ước đồng minh, cả hai bên cùng công cùng thủ. Mặc dù quân Thát ở quan ngoại không có hoạt động gì lạ nhưng Dương Nhất Thanh vẫn như gặp đại địch, tự mình trấn giữ Đắc Thắng bảo, đồng thời ra lệnh dọc tuyến Sơn Tây hơn hai trăm quan ải, phong hỏa đài, vệ sở đề phòng toàn diện, tụ tập tinh binh. Vương Thủ Nhân tự mình dẫn hai vị du kích tướng quân canh giữ ở quan ngoại, cơ động chiến đấu, theo dõi hoạt động của lực lượng Hỏa Sư.
Hai vạn binh mã của Thái Nguyên vệ Trương Dần được giữ làm quân dự bị, cố thủ ở Quảng Vũ bảo huyện Âm Sơn, sẵn sàng nhận mệnh lệnh bất kỳ lúc nào. Đỗ Nhân Quốc trấn giữ thành Đại Đồng; còn Hứa Thái dẫn bảy ngàn kỵ binh phục ở bên trong Đại Đồng, một khi núi Bạch Đăng báo động thì lập tức phóng ngựa gấp rút tiếp viện.
Trên núi Bạch Đăng đã xây xong đình đón khách, lều lớn để tổ chức hội nghị, khắp bốn mặt sườn núi đã ẩn giấu bảy mươi khẩu độc hỏa pháo.
Những độc hỏa pháo này có thể bắn lựu đạn cũng có thể bắn đạn ria. Một phát có thể bắn ra hơn trăm miếng sắt nhỏ, tầm bắn không xa nhưng khi phát xạ, cả trăm viên đạn lớn nhỏ cùng bay ra ngoài. Ầm một tiếng như sấm, lực sát thương với phạm vi sát thương đều rất lớn, thích hợp sử dụng ở trận địa trống trải nhằm oanh kích đội hình chiến đấu dày đặt của đối phương. Loại pháo này áp chế thế công điên cuồng của địch rất hiệu quả.
Đại quân Bá Nhan vẫn ở ngoài Trường Thành, ở giữa còn có vài vạn đại quân ngăn cản, do chính Dương Nhất Thanh thống lĩnh. Do đó Dương Lăng không lo lắng Thát Đát hợp sức cùng tiến công mà chỉ lo Di Lặc giáo thần thông quảng đại. Ngay trong thành Bắc Kinh mà bọn họ đã có thể tập trung hơn hai trăm tay tội phạm tập kích Cao Lão trang vào ban đêm nên bây giờ Dương Lăng cũng không biết bọn họ có thể tụ tập mấy ngàn giáo đồ cuồng tín bất ngờ tập kích núi Bạch Đăng hay không. Bởi vậy ở đồng ruộng chung quanh chốn ký kết hiệp ước y đã cho chôn hơn năm trăm quả địa lôi có thể chủ động kích hoạt được. Trước đó những địa điểm chôn địa lôi đều đã được đánh dấu, một khi không sử dụng tới, những quả mìn này phải được lấy ra nguyên vẹn, tránh vào đầu xuân gây rủi ro khiến dân lành đi làm ruộng bị dính thương vong.
Theo ước định trước, đội ngũ Hoa Đáng sẽ được nghênh đón tại cửa khẩu Phi Hồ độ. Đây là một quan ải nhỏ, từ ngoài vào trong khá nguy hiểm khó vượt qua, nhưng từ bên trong xông ra bên ngoài lại không có gì khó khăn, một khi xông ra sẽ phá được đội hình quân ngăn trở nên rất dễ thoát thân. Y lựa chọn nơi này cho sứ giả Đóa Nhan Tam Vệ nhập quan là đã xóa bỏ được lòng nghi ngại của Hoa Đáng.
Hai bên quan ải Phi Hồ độ là những rặng núi cao hiểm trở, chim bay khó lọt, phía trên là vách đá trơ trụi khó mai phục binh sĩ. Dãy núi kéo dài như rồng, cùng Đại Đồng phía tây ngăn cách thảo nguyên, trở thành rãnh trời cắt đứt khả năng đại quân Bá Nhan trèo đèo lội suối từ nơi đó nhập quan. Còn nếu như bọn chúng vòng qua hơn mười dặm từ phần cuối dãy núi đánh giết vào, những phong hỏa đài thiết lập tại phương xa liền có thể báo động ngay lập tức, quân Minh sẽ đóng kín quan ải. Nhưng để cho an toàn, tuy ở quan ải này đã có sẵn quan binh cơ sở trú đóng, Dương Lăng vẫn điều thêm Kinh Phật Nhi cùng một ngàn binh mã đến tăng cường.
Đã chuẩn bị kỹ lưỡng đến như thế, quả thực có thể nói là không còn sơ hở gì, nhưng Dương Lăng cùng Hồ Toản, Dương Nhất Thanh, Trương Vĩnh, Miêu Quỳ vẫn lo lắng không yên. Đã rất khuya mà bọn họ vẫn tụ tập trong thư phòng cân lui nhắc tới, suy diễn tất cả các cạm bẫy có thể xuất hiện.
Hồ Toản nói:
- Quan ải, Đại Đồng, núi Bạch Đăng cách nhau không xa, chỉ trong phút chốc có thể kéo quân đến ngay lập tức. Quanh chỗ đó trên mười dặm đều là đồng bằng không có gì nguy hiểm, không chỗ có thể ẩn nấp để thực sự gây bất lợi cho Hoàng Thượng. Bọn họ chỉ có thể dùng sức tấn công mà thôi, nhưng mà trừ phi Di Lặc giáo có bản lĩnh rải đậu thành binh, bằng không những binh mã này từ đâu mà xuất hiện? Theo ý bản quan, nên đề phòng chăng là khi địch đến thì tên bay đạn lạc lỡ làm tổn thương Hoàng Thượng.
Dương Lăng cười cười, tiết lộ:
- Tuần phủ đại nhân yên tâm! Trên núi có một cái hang động sâu đến hơn bốn mươi trượng. Ta đã phái người san bằng đỉnh núi, sau đó chỉnh sửa, xén phẳng hang núi kia, cũng đào rộng bề ngang, đẽo thêm bậc thang đá. Lều lớn để hội họp đã được dựng ngay trên cửa động, một khi có chuyện, lập tức có thể mời Hoàng Thượng tạm lánh vào trong động.
Trương Vĩnh bàn:
- Di Lặc giáo dẫn một đám dân làng đến hại được Hoàng Thượng ư? Không thể tưởng tượng được! Bọn họ đã không có đại quân, một đám dân lành không biết gì thì không thể làm nên việc lớn được. Theo cha gia thấy, khả năng bọn chúng sử dụng thích khách còn lớn hơn nữa. Liệu trong quân, thậm chí trong nhóm Đóa Nhan Tam Vệ, có thể có người bị chúng mua chuộc trở thành thích khách liều chết hay không? Ít ra Hoàng Thượng phải mặc hai lớp giáp mềm, còn phải chọn lựa những người võ nghệ giỏi nhất trong thị vệ đại nội theo hầu chung quanh, không rời người nửa bước.
Thấy những thần tử này vì an toàn của mình mà như gặp đại địch, thảo luận không ngừng, Chính Đức không nén nổi lắc lắc đầu, đột nhiên xen vào chế nhạo:
- Không biết Hoa Đáng bây giờ đang làm cái gì nhỉ? Phải chăng các thủ lĩnh bộ lạc của Đóa Nhan Tam Vệ cũng đang trắng đêm không ngủ cân nhắc làm như thế nào để bảo vệ được tính mạng của Hoa Đáng?!
Mọi người nghe xong đang ngẩn người, Chính Đức đã đứng dậy bảo:
- Các vị ái khanh cứ tiếp tục! Ta đây là người bằng gốm sứ nên phải về phòng nghỉ ngơi đã.
Các quan chức còn chưa kịp quỳ xuống thi lễ, Chính Đức đã vén màn cửa, thản nhiên bước thẳng ra ngoài.
Đêm đen như mực, sao trời lấp lánh. Hai hàng thị vệ ngoài cửa nhìn thấy Hoàng Thượng bước ra lập tức có hai gã thị vệ vội vã tháo đèn lồng xuống định đưa nhà vua trở về. Đúng lúc đó, một bóng người yểu điệu chợt tiến vào sân nhỏ trước thư phòng. Mắt sáng lên, Chính Đức vội lén ra hiệu với thị vệ rồi lập tức bước ra nghênh đón.
Hắn vẫn mặc bộ đồ hiệu úy nên Đường Nhất Tiên cứ ngỡ hắn đang làm thị vệ canh cửa. Nàng khẽ nhón chân nhìn vào thư phòng, ánh đèn qua song cửa sổ chiếu ra vài bóng người còn đang huơ tay nói chuyện với nhau.
Đường Nhất Tiên khẽ nhíu mày:
- Hai ngày này biểu ca quá bận rộn, không rảnh để gặp mặt ta. Trong phòng dường như có thật nhiều người, bọn họ đang bận rộn cái gì vậy?
Chính Đức nhẹ nhàng khẽ giật ống tay áo Đường Nhất Tiên, đánh mắt ra phía trước rồi im lặng bước ra ngoài. Đường Nhất Tiên kinh ngạc bước theo ra hắn khỏi sân. Nàng thấy Chính Đức hai tay thu vào tay áo, ngửa mặt nhìn sao trên trời lẩm bẩm:
- Mỗi một vị quân vương đều có thể hóa thành một ngôi sao trên bầu trời. Sao dày dặc khắp trời, ngôi sao sáng nhất chắc chắn là vị quân vương xứng đáng nhất.
Đường Nhất Tiên bĩu môi:
- Ngươi đừng xạo nữa, gọi ta ra đây làm gì?
Chính Đức liếc mắt nhìn nàng, mỉm cười nói:
- Ngày mai Hoàng đế sẽ cùng thủ lĩnh Đóa Nhan Tam Vệ của quan ngoại ký kết hiệp ước. Mấy ngày nay đại nhân có rất nhiều chuyện nên rất bận rộn, cô khoan vào đã.
Đường Nhất Tiên gật gật đầu, chợt nói:
- Ôi! Ta thấy lạ lạ, hóa ra là Hoàng đế..., - nàng đột nhiên mở to mắt, thất thanh - Hoàng đế? Hoàng đế ở Đại Đồng?
Chính Đức đưa một ngón tay lên miệng, khẽ “suỵt” rồi cười nhẹ:
- Nói nhỏ một tí! Ngày mai ký kết hiệp ước thì tất nhiên cả thiên hạ phải biết, nhưng mà tối nay lại chưa thể tung tin ra được.
Đường Nhất Tiên trợn mắt nhìn hắn, nhưng vẫn hạ giọng hỏi:
- Vậy ngươi nói cho ta biết làm gì?
Nàng ngẫm nghĩ một lúc, lại hỏi:
- Ký kết hiệp ước hẳn là không có gì nguy hiểm. Ngươi cũng phải đi hay sao?
Thấy Chính Đức gật đầu, nàng bước đến gần rồi như một người chị lớn nghiêm trang giúp hắn sửa sang lại y phục, dặn dò:
- Đi theo Hoàng Đế ra ngoài nhất định là rất vinh dự. Nhưng mà ngươi tuổi còn nhỏ, không thông suốt việc thế sự, phải hiểu cách tự chăm sóc mình, chớ để thất lễ trước mắt quân vương. Không những như thế là đã đánh mất mặt mũi anh của ta mà cũng ảnh hưởng đến tương lai chính mình.
Chính Đức gật gật đầu, bỗng nhiên cười nói:
- Bản thân cô tuổi không lớn lắm mà lại rành rẽ cách chăm sóc người khác. Trước kia cũng giống như vậy, đến bây giờ ta vẫn còn nhớ rõ ánh mắt ân cần, đồng tình của cô lần nọ.
Mắt sáng rỡ, Đường Nhất Tiên hứng thú bừng bừng hỏi:
- Chuyện trước kia của ta? Ta chẳng nhớ chuyện gì cả. Biểu ca lại bận quá nhiều việc nên, ta cũng không tiện hỏi anh ấy. Ta đã ân cần đồng tình với ngươi như thế nào? Kể cho ta nghe với!
Chính Đức thầm hối hận mình đã lỡ lời. Nhưng chỉ trong chốc lát, hắn ta đành phải kiên trì nói dối đến cùng:
- Có...... Có một lần, cô và...... Nhị phu nhân, Tam phu nhân của Đại nhân đang đi trên đường phố, bị một tên vô lại quấy rối. Ta bắt gặp được nên tiến lên ngăn cản, nhưng bất ngờ không kịp đề phòng bị tên du côn kia tống một quyền trúng mũi chảy máu không ngừng. Cô đã đưa một cái khăn tay cho ta...
Đường Nhất Tiên phì cười, nheo mũi:
- Ngươi thật là ngốc! Điều đó mà coi như ân cần đồng tình cái gì? Cho dù người qua đường trọng nghĩa nói giúp vài câu, ta cũng vẫn cảm kích người ta vài phần đấy nha. Ngươi thật! Người khác giúp đỡ ngươi thì nên nhớ ở trong lòng, nhưng mà cũng không cần tự cam lòng nhỏ bé, tự cảm thấy mình thân phận thấp kém, làm cho người khác cái gì cũng đều là điều cần phải làm.
Chính Đức gật gật đầu, thầm nghĩ: "Nếu không phải Dương thị độc dẫn ta ra khỏi cung, làm sao ta có thể gặp được cô? Nói như vậy, đúng ra ta nên cảm kích Dương Lăng mới đúng. Tuy nhiên, nói đi thì phải nói lại, nếu không phải ta xông vào ‘Hoa quán', thì làm sao Dương khanh có thể gặp được hai cô ái thiếp, còn được ta chuộc ra ban cho hắn? Chẳng lẽ đúng là một miếng ăn, một chén nước đều do tiền định cả sao? Lần này gặp lại được cô thực là khó khăn trăm bề, ta nhất định phải rất quý trọng, cả đời này ta sẽ không để cho cô rời khỏi tầm mắt của ta.”
***
Mấy ngàn thiết kỵ trùng trùng điệp điệp trên đường. Hôm nay là ngày chính thức ký kết hiệp ước đồng minh, không cần che giấu việc Hoàng đế đã vào tới Đại Đồng nữa. Không lý nào quân vương một đại quốc tổ chức ký kết hiệp ước cùng một tiểu bộ lạc ngay trên quốc thổ của mình mà lại còn phải giấu giấu giếm giếm! Cho nên Dương Lăng mượn của phủ Đại Vương nguyên bộ nghi trượng, rồi lại bố trí thêm cờ quạt lọng tán mới tinh.
Đại Vương và Tuần phủ Đại Đồng Hồ Toản ruổi ngựa đi trước, tiễn vua ra khỏi thành. Trên đường cái năm bước một chòi gác, mười bước một trạm canh, những đường phố loan giá đi qua đều được phong bế chặt chẽ. Đứng ở bên ngoài lằn ranh do quan binh thiết lập cảnh giới, dân chúng ngạc nhiên trố mắt nhìn nghi trượng Hoàng đế mà có lẽ suốt đời chỉ có cơ hội này họ mới được nhìn thấy.
Ở góc đường, Thôi Oanh Nhi bình tĩnh đánh giá đại đội nhân mã đi qua không dứt. Chiếc ngự kiệu che lụa vàng tươi vừa tiến đến. Trước sau, trái phải, mỗi bên có ba mươi hai thị vệ đại nội mặc áo thêu hình cá chuồn, đeo đao tú xuân vây kín chung quanh chiếc đại kiệu tới mưa gió không lọt, chỉ còn có thể thấy được cờ quạt lọng tán trên đỉnh kiệu từ từ lướt qua.
Hoắc Ngũ thúc lặng lẽ chen đến gần ra hiệu cho nàng lui lại về phía sau mấy bước, nói nhỏ:
- Vừa mới thấy có cả chục cờ mặt trời, cờ mặt trăng, cờ phi hổ trong đoàn nghi trượng, chính là Dương Lăng và Đại Vương, Hồ Tuần phủ. Thị vệ trùng trùng điệp điệp, hoàn toàn không có cách nào ra tay.
Thôi Oanh Nhi ngẩn người, hỏi ngược lại:
- Ngũ thúc, không phải thúc vừa mới nói đi tiểu tiện một chút hay sao? Sao mà thúc lại đi theo nghi trượng được một lúc rồi?
Thầm hối hận mình lỡ lời, Hoắc Ngũ thúc vội vàng giải thích:
- Vừa mới đi ngoài trở về là đã nhìn thấy nghi trượng đi qua, ta không kịp tìm con bèn đi theo một đoạn. Nhìn tình hình thế này, một khi bọn họ ra khỏi thành bọn ta càng không có cách nào ra tay. Sau khi ký kết hiệp ước xong, Hoàng Đế sẽ trở về kinh, có thể bọn ta cũng lại không có cơ hội rồi.
Thôi Oanh Nhi hồ nghi nhìn lão, ngần ngừ:
- Đã là chuyện không thể làm, chúng ta...... Lúc đó dừng tay thì sao? Hoàng Đế cùng Đóa Nhan Tam Vệ ký kết hiệp ước, giao thương buôn bán cả hai đều lợi. Dân chúng biên ải hiện đang rất cao hứng, nếu như chúng ta quấy rối việc này thì không biết phải chịu đựng sự chửi rủa của biết bao nhiêu người.
Hoắc Ngũ thúc nhìn lướt chung quanh, đáp:
- Không vội! Hoàng Đế thân chinh đến Đại Đồng tất nhiên rất coi trọng lần ký kết đồng minh này. Việc này vừa xong, quan chức Đại Đồng nhất định bày rượu thiết yến chúc mừng Hoàng Đế thành công. Việc thù tạc của Dương Lăng cũng nhất định không ít, chúng ta vẫn còn cơ hội.
Thôi Oanh Nhi thầm than nhẹ trong lòng, lông mày vương chút sầu muộn. Hoắc Ngũ thúc tận tình như thế, nàng còn có thể nói được gì?
Bộ dạng mệt mỏi, nàng lười biếng:
- Ừm! Chúng ta về chỗ ẩn thân trước đi. Hôm nay trong thành phong tỏa càng nghiêm ngặt hơn, Hoàng Đế từ ngoài thành trở về cũng phải có cả ngàn quân binh bảo vệ. Dương Lăng lại ở bên cạnh của hắn. Hôm nay cho dù có bản lĩnh tày trời cũng không thể đến gần cận thần của Hoàng đế được!
Dưới sự bảo vệ của năm nghìn tinh binh, đoàn nghi trượng của Hoàng đế chậm rãi tiến lên núi Bạch Đăng. Thám mã đi lại không ngừng như đèn kéo quân. Cứ theo báo cáo hành trình Hoa Đáng nhập quan, Dương Lăng lại điều chỉnh tốc độ của đoàn quân.
Hoàng Đế không thể tới trước Hoa Đáng, nhất định phải để cho Hoa Đáng kính cẩn chờ đợi rồi Hoàng đế mới tới. Nhưng Đại Minh là chủ, Đóa Nhan Tam Vệ là khách nên không thể để cho bọn họ phản khách vi chủ (biến bị động thành chủ động) ở chân núi Bạch Đăng đợi quá lâu. Lúc này việc đắn đo, cân nhắc thời gian rất quan trọng.
Trên núi Bạch Đăng cắm đầy cờ quạt lộng lẫy, hai hàng quan binh xếp từ chân đến đỉnh núi. Các thủ lĩnh Đóa Nhan Tam Vệ và các bộ Nữ Chân vừa mới bày xong đội ngũ chỉnh tề ở chân núi thì đoàn quân Dương Lăng cũng vừa đến nơi.
Đại quân Đóa Nhan Tam Vệ không thống nhất trang phục lẫn cờ hiệu, ngay cả vũ khí cũng là đủ loại, nhưng mà cái khí phách hiên ngang ngút trời của cả bọn lại biểu lộ hết sự dũng cảm oai hùng. Từ xa, ngồi trong kiệu lớn nhìn thấy sắc diện bọn họ, Chính Đức không khỏi tán thưởng:
- Năm xưa Đóa Nhan Tam Vệ theo hoàng đế Vĩnh Lạc tấn công Kim Lăng, mỗi khi gặp nam quân đều lấy ba vệ binh ngựa làm tiên phong. Ba nghìn người ngựa đấu với ba vạn người ngựa nhưng chỉ cần xung kích một lần là đánh bại kẻ địch. Bây giờ chiến lực bọn họ còn thua xa năm xưa nhưng mà nhìn khí phách bây giờ đã như vậy, các ngươi có thể tưởng tượng được lúc trước các binh sĩ Đóa Nhan Tam Vệ oai phong như thế nào!
Trương Vĩnh cùng cười nói:
- Hoàng Thượng! Quân uy Đại Minh của ta cũng không kém đâu. Lúc trước thần đã lấy làm lạ khi Dương đại nhân chọn lựa lính khỏe từ mười hai đoàn doanh gồm hơn mười vạn đại quân, tại sao đại nhân lại bỏ qua không tuyển một ít binh lính võ nghệ tinh thông có tướng mạo xinh đẹp, lại chuyên chọn những người lực lưỡng võ nghệ cao cường mà tướng mạo nhất định phải rắn rỏi. Bây giờ thần mới hiểu được dụng ý trong đó.
Nghe xong, Chính Đức chỉ cười không đáp.
Quân Đại Minh quả nhiên cũng không kém Đóa Nhan Tam Vệ. Năm nghìn kỵ binh, người nào cũng cao lớn vạm vỡ, tuấn mã oai phong, giáp trụ lóng lánh chói mắt, thương kích uy nghiêm hướng lên trời như rừng, quả nhiên phong cách đội quân này cũng khá dọa người.
Tiếng ngựa hí cùng tiếng bội đao va chạm lách cách vang lên. Sấp sỉ chừng một nén hương, đại kiệu của Chính Đức mới coi như đã đến hẻm núi Bạch Đăng. Đại thủ lĩnh Hoa Đáng đã dẫn đầu những quý tộc thủ lĩnh Tam vệ và tù trưởng ba bộ Nữ Chân kính cẩn chờ đợi ở đầu hẻm núi.
Nghi trượng Hoàng đế tách ra hai bên, Dương Lăng ghìm cương ngựa, ngẩng đầu đưa mắt nhìn thẳng về phía trước. Dẫn đầu đoàn sứ giả chính một người đàn ông lực lưỡng, trên gương mặt chữ điền đỏ thẫm lộ rõ một khí thế uy mãnh khó cưỡng.
Ánh mắt Dương Lăng giống như tia chớp tập trung ở trên người của hắn, ”Tại sao lại là Nhạ Mộc Đồ? Hoa Đáng đâu?” Dương Lăng giật mình kinh hãi, bất giác nắm chặt thanh kiếm đeo bên hông. Y đang định lớn tiếng quát hỏi, Nhạ Mộc Đồ đã cởi thanh bội đao xuống ném cho một người hầu đứng phía sau, tay không tấc sắt ngang nhiên tiến đến giữa hai hàng đao thương uy nghiêm đáng sợ của thị vệ đại nội.
Hắn đi nhanh như bay, tiến thẳng đến trước đại kiệu mới dừng lại. Hắn chợt đảo người sụp xuống lạy, từ bên trong cổ họng bắn ra những âm thanh to như sấm:
- Chỉ huy Đóa Nhan Tam Vệ, Đồng tri Hoa Đáng, khấu kiến Đại Minh hoàng đế vạn tuế, vạn vạn tuế!