Cao Trọng Hùng phát hiện bầu không khí trong phòng dần nặng nề, đột nhiên nhớ ra việc mình cũng có giao tình với Phan Viễn thì như ngồi trên đống lửa, lo lắng Diêu Ôn Ngọc sẽ bởi vậy mà trách cứ mình. Hắn không chịu nổi trầm mặc nữa liền nói: “Tuy rằng ta quen biết Phan Viễn nhưng không phải người đồng đạo, xưa nay tiệc tùng vãng lai cũng chỉ là bất đắc dĩ thôi.” Hắn không quen nói khéo, giờ liền cà lăm, “Thật ra ta rất kính nể tài học của Nguyên Trác… thời Hàm Đức chúng ta từng hội ngộ tại lầu thơ, thần tư Nguyên Trác siêu phàm, khiến người nhìn thấy liền quên phàm tục…”
Diêu Ôn Ngọc đợi cho Cao Trọng Hùng nói xong, y bình tĩnh bảo: “Chuyện cũ như mộng Nam Kha, không đáng nhắc tới nữa. Ngươi và ta có thể còn sống gặp lại tại Tì Châu chính là cái duyên rồi. Bây giờ ta đã tìm được lương chủ, chẳng hay về sau ngươi dự định thế nào?”
Cao Trọng Hùng liếc nhìn Thẩm Trạch Xuyên, nói: “Ta lưu lạc đến đây, nào còn có dự tính gì.” Hắn gượng cười, “Hôm nay thật khiến người cười chê… Ta học hành gian khổ nhiều năm như vậy, quay đầu lại chỉ là công dã tràng.”
Thẩm Trạch Xuyên cài cây quạt trong tay áo, cảm thấy trong phòng bắt đầu lạnh nên bảo người chuẩn bị canh nóng. Y kéo tâm tư về trong thoáng chốc, ngọc châu khẽ nghiêng, khách khí nói với Cao Trọng Hùng: “Bây giờ thế cuộc bất ổn, hào hùng các nơi tranh nhau xuất thế, nếu Thần Uy tiên sinh đã đến Tì Châu rồi, chi bằng tạm thời trú lại phủ ta rồi từ từ tính đi.”
Cao Trọng Hùng nghe Thẩm Trạch Xuyên gọi mình “Thần Uy tiên sinh” liền không nén được cảm động. Cả đoạn đường hắn ăn đắng nuốt cay, trước nay đều không gặp được chủ tốt, cuối cùng hắn đứng dậy, vái Thẩm Trạch Xuyên một cái thật thấp, miệng lưỡi càng lúng túng vụng về. Thẩm Trạch Xuyên động viên hắn chút, qua thêm gần nửa canh giờ Cao Trọng Hùng mới lui ra.
Diêu Ôn Ngọc nhìn rèm trúc buông xuống, đợi Cao Trọng Hùng đi khỏi đường hành lang mới nói: “Có phải Đồng tri cảm thấy người này không dùng được?”
Mặc dù Thẩm Trạch Xuyên thật sự nghĩ vậy nhưng cũng không thể nói thẳng, y nói: “Ngươi đề cử hắn như thế, chắc hẳn có chỗ hơn người.”
“Không sai, ” Diêu Ôn Ngọc nói, “Cao Trọng Hùng tên tự là Thần Uy, thường có danh xưng “Bút sắc” trong trường thái học. Năm đó khi Hề Hồng Hiên khuấy động phong vân Khuất Đô, kích động làn sóng trường thái học sở dĩ đã chọn Cao Trọng Hùng, chính là vì tài bút của hắn. Hắn là học sinh vào đô năm Hàm Đức thứ tư, khi đó đúng lúc Trung Bác binh bại, sáu châu tàn tạ khắp nơi, hắn say rượu viết nên “Trà Thạch than thở“ khiến bọn học sinh tranh nhau sao chép lại, truyền đến tay Sầm Dũ cũng khiến Sầm Dũ phải đối chúc rơi lệ*, cảm khái không thôi đấy.”
*đối chúc rơi lệ: ‘chúc’ là ngọn nến => ngồi trước ngọn nến đọc đến rơi lệ
Thẩm Trạch Xuyên dùng trà, nói: “Ra là vậy.”
Thực ra Hề Hồng Hiên thúc đẩy sóng gió trường thái học là do Thẩm Trạch Xuyên xúi bẩy. Cao Trọng Hùng dẫn học sinh chất vấn chuyện Thẩm Trạch Xuyên ra khỏi chùa, bị Phan Như Quý Kỷ Lôi cưỡng ép trấn áp, kích chiều hướng của bọn học sinh đột ngột chuyển thành bất hoà với Phan đảng, khiến đám người Kỷ Lôi còn chưa kịp động thủ không kịp phòng bị, bởi vậy mà mất đi lập trường chủ động công kích Thẩm Trạch Xuyên.
Thẩm Trạch Xuyên hiểu tác dụng mấu chốt của trận phong ba đó là gì nhất, kể cả sau này Tiết Tu Trác lại dấy lên phong ba trường thái học lần nữa, bọn họ đều nắm được lòng số đông, sau đó dẫn dụ phương hướng của bọn học sinh, trong đó không thể thiếu sức cảm hoá của ngôn từ và văn chương. Ý tứ của Diêu Ôn Ngọc rõ ràng, nét bút của Cao Trọng Hùng có loại năng lực này, hắn có thể kích động sóng cuồng, mà hiện nay Thẩm Trạch Xuyên đang cần cây bút như vậy.
“Một lần đi Trà Châu, Đồng tri đã lộ danh rồi, nhưng với tất cả tội danh Thẩm Vệ, muốn quang minh chính đại dẫn lĩnh quần hùng thì vẫn còn thiếu rất nhiều.” Diêu Ôn Ngọc ngừng giây lát, “Dù cho ngày sau sáng tỏ được ngọn ngành của án binh bại, Thẩm Vệ vẫn cứ là ải khó qua.”
Danh không chính tất ngôn không thuận, đây là vấn đề Thẩm Trạch Xuyên không thể đi vòng tắt qua.
Bây giờ Dực vương Phàn Châu khởi thảo công văn công kích Tì Châu, nhiều lần đề cập đến án binh bại, Thẩm Vệ rụt rè bất chiến chính là sự thực, Chu Quế muốn tranh luận cũng không có chỗ mà xuống tay. Thứ nhất, Thẩm Trạch Xuyên đúng là con thứ tám của Thẩm Vệ, y là con ruột của Thẩm Vệ, dù phân trần “không được yêu thương” cũng hoàn toàn không cách nào dẹp được phẫn nộ của mọi người, đó là huyết thống, tuyệt đối không phải thứ hệ xa xôi như Phí Thịnh, chỉ bằng một cái miệng mà thuyết phục được người trong thiên hạ. Thứ hai, án binh bại là thảm án bị nhóm người Hoa Tư Khiêm gây ra vì mục đích lấp quốc khố khuyết thiếu, thế nhưng hết thảy chứng cứ đều bị tiêu hủy rồi, Thẩm Vệ tự thiêu, Hoa Tư Khiêm đột ngột vào ngục, Ngụy Hoài Cổ uống thuốc độc, sự việc cấu kết kỵ binh Biên Sa đầu cơ trục lợi bản đồ quân sự Đại Chu càng không lưu lại vết tích gì.
Đây là bóng tối bao phủ Thẩm Trạch Xuyên mỗi thời mỗi khắc, cũng là tai họa ngầm lớn nhất của y. Y khởi thế ở Tì Châu, vì sao lại khan hiếm nhân tài như vậy? Vì nhân tài thiên hạ không chịu đến đây, bọn họ thà đi theo Dực vương Phàn Châu hạng dân bình thường khởi nghĩa vũ trang, cũng không chịu đi theo Thẩm Trạch Xuyên.
“Hôm nay Đồng tri xử quyết phụ tá Tì Châu, là lấy lý do công khai thẩm tra mới không rơi vào đàm tiếu. Thế nhưng dần dần Tì Châu lớn mạnh, Trà Châu quy thuận, Đồng tri mà muốn tiến thêm bước nữa, nhất định phải bỏ danh xưng ‘Đồng tri’ này trước.” Diêu Ôn Ngọc nhìn sắc mặt Thẩm Trạch Xuyên như thường, tay nghịch quạt xếp, liền biết Thẩm Trạch Xuyên đã nghĩ tới chuyện này rồi, vì vậy y nói tiếp, “Tì Châu đã không còn bị Khuất Đô chưởng quản từ lâu, dùng danh xưng cũ dễ lẫn lộn chủ thứ, tiếp tục xưng ‘Đồng tri’ thì không thích hợp.”
Diêu Ôn Ngọc chỉ hơi gợi ra, hai người đã ngầm hiểu trong lòng.
Thẩm Trạch Xuyên có thể xưng “Đồng tri”, cũng có thể xưng “Trấn phủ”, đó đều là chức danh của y tại Cẩm y vệ, ngay khi y rời Khuất Đô là hết giá trị rồi. Bây giờ y đang ở Tì Châu, châu phủ Tì Châu là Chu Quế, nếu như không có xưng hô mới, tức ám chỉ y vẫn là khách, Chu Quế mới đúng là chủ. Hôm nay nha môn có chuyện, phụ tá phạm tội vẫn có thể ngồi vững bên gian riêng, nguyên nhân chính là vì bọn họ vẫn coi Chu Quế là chủ nhân của Tì Châu như trước, nghĩ mình không lệ thuộc vào Thẩm Trạch Xuyên, giữa hai bên vẫn tồn tại ranh giới.
Chỉ có Khổng Lĩnh sớm ý thức được vấn đề hiện tại, trước khi xuất hành Trà Châu đã đề cập cho Chu Quế tỉnh ngộ, trước lần xuất hành Hòe Châu này cũng nhắc nhở Chu Quế, chỉ là Chu Quế thực sự không thông hiểu nội tình, cuối cùng vẫn chậm chạp chưa kịp phản ứng.
Thẩm Trạch Xuyên không thể tự lập xưng vương, ít nhất hiện tại không thể. Dực vương Phàn Châu dựng lên sớm như vậy, đúng lúc là con mồi trước mặt Khải Đông. Thích Trúc Âm đã chậm hoãn sức lực, một khi nàng ngăn chặn được khe hở Biên quận thì có dư lực xuất binh đến Trung Bác, đầu tiên sẽ phải đánh đám tạp vương sơn dã này.
“Hạng vô danh cũng có cái lợi của hạng vô danh, ” Thẩm Trạch Xuyên hơi ngửa ra sau, “ít nhất Thích Trúc Âm vô cớ xuất binh, không thể tắt qua năm châu còn lại đánh vào Tì Châu.”
Tì Châu vừa không nạn trộm cướp, vừa không có dã vương, tám đại doanh xuất binh chỉ đuổi bắt mỗi Tiêu Trì Dã dẫn theo Cấm quân. Thẩm Trạch Xuyên cùng lắm là “tù nhân trốn ngục” thôi, Tì Châu cũng cùng lắm là đang “chứa chấp tù nhân trốn ngục”. Chu Quế không trắng trợn treo cờ phản, hắn vẫn là “châu phủ” trong cảnh nội, ngoảnh mặt làm ngơ với mệnh lệnh của Khuất Đô, cũng có thể lấy khoảng cách đường xá xa xôi để thoái thác, chỉ riêng điểm này, Thích Trúc Âm liền không cách nào tấn công Tì Châu được —— trừ phi nàng mượn danh nghĩa diệt cướp, vòng binh đến phía tây Tì Châu, lại dùng lý do mượn đường để thuận lý thành chương tiến vào Tì Châu. Nhưng muốn điều động binh lực thế này, chi tiêu quân lương sẽ phải tăng gấp bội, Khuất Đô cũng chưa chắc cho tiền. Biện pháp tốt nhất vẫn là để tám đại doanh xuất binh, có lương thực Đan Thành trợ giúp, khi đến gần lại có thể mượn lý do lùng bắt Thẩm Trạch Xuyên chạy trốn để khai chiến với Tì Châu, nhưng mà Hàn Cận đã quá mức vội vàng, không chỉ bị Tiêu Trì Dã đánh cho tan tác, còn bị Tiêu Trì Dã đánh cho đần độn, khiến tám đại doanh phải rút về như rùa rụt cổ.
Song cục diện này không thể kéo dài.
Bởi vì tám đại doanh tất sẽ quay trở lại, chờ ba bên Khuất Đô tiến vào kỳ ổn định, Binh bộ sẽ tuyển lại chủ tướng. Để đề phòng tình huống này, Tiêu Trì Dã cùng Thẩm Trạch Xuyên mới phải mua lại bãi săn Bắc Nguyên từ chỗ Chu Quế để dùng làm trại Cấm quân. Cứ như vậy, hai vạn cấm quân chính là tấm khiên phía tây Tì Châu, đặc biệt dùng để chống cự tám đại doanh. Nhưng đồng thời, Cấm quân chỉ cần về tới cảnh nội Tì Châu, Thích Trúc Âm có thể dùng lý do tiêu diệt quân đảo chính trực tiếp lên phía bắc tấn công Tì Châu.
Bởi vậy Thẩm Trạch Xuyên không vội vã diệt trừ Dực vương Phàn Châu. Y muốn Dực Vương trở thành ngọn núi chắn ngang giữa y và Khải Đông, nhưng y cũng không thể để mặc Dực vương làm to được.
“Ta từng đề nghị Đồng tri phải nhanh đoạt lấy Phàn Châu, bây giờ đã không còn là thời cơ tốt rồi.” Trà trong tay Diêu Ôn Ngọc đã nguội lạnh, y nói, “Đồng tri muốn nuôi Dực vương, trước tiên phải chém đứt cái tay duỗi ra hướng bắc của hắn đã.”
“Mấy tháng trước, ” Đôi mắt Thẩm Trạch Xuyên trấn tĩnh, “Lôi Kinh Trập bị Sách An đưa về Lạc Sơn, trở thành tầm ngắm bị đông đảo chỉ trích rồi, không thể tiếp tục hiệu lệnh quần phỉ, cả Lạc Sơn hỗn loạn hết lên, nội bộ các phái cũng trở mặt thành thù. Hiện tại Dực vương muốn liên minh với Lạc Sơn, Lôi Kinh Trập vốn một lòng muốn đông sơn tái khởi sẽ không bỏ qua cơ hội này.”
Trong mắt Diêu Ôn Ngọc hơi động, y nói: “Ý Đồng tri là…”
Thẩm Trạch Xuyên bỗng xoè quạt che nửa khuôn mặt, ánh mắt ngậm cười, nói lời chậm rãi: “Ta muốn giúp hắn một tay.”
Ngoài cửa sổ gió nổi lên, có vẻ trời sắp đổ mưa.
***
Hàn Cận cào tường đến sắp trụi mười ngón rồi. Hắn đã trong ngục Tì Châu đợi gần ba tháng, gầy gò tới mức không ra hình người, còn bị người ta mắng chửi nhục mạ. Ban đầu hắn không chịu nổi, còn biết lấy nước mắt rửa mặt, nhưng dần dần thời gian qua đi, hắn cũng từ từ trở nên tê liệt.
“Ăn cơm.” Ngục tốt đâm chọc, dùng muỗng gỗ gõ vào cửa lao từng tiếng một, quát lớn, “Ăn cơm!”
Bọn họ thông thạo việc này, có thể nhanh chóng múc cơm canh, rót đầy bát không rớt giọt nào. Hàn Cận nghe thấy tiếng liền vội vàng nhào tới cửa lao trước mặt, vươn tay với lấy cái bát. Ai ngờ ngục tốt phía sau đi qua cho một cước đá bay bát cơm, nước canh và cơm đều tung toé khắp đất.
Hàn Cận đói đến chua loét dạ dày rồi, hắn quỳ thân, lấy ngón tay nắm cơm trên đất liều mạng nhét vào miệng. Trong cơm lẫn cả đất cát, còn có mấy viên đá nhỏ, cộm làm răng hắn đau nhức. Hắn tì trán lên cửa lao, thọc cái tay bẩn thỉu vào miệng móc đá ra.
Đang lúc cố sức, chợt thấy một đôi chân dừng lại ngoài cửa lao.
Hàn Cận cẩn thận ngước mắt, giống như né tránh mà ngó ra phía ngoài.
Cao Trọng Hùng đâu ngờ Hàn Cận sẽ trở thành bộ dáng này, hắn vốn định đến xem thử chủ cũ thế nào.
Hàn Cận là đệ ruột của Hàn Thừa, tại Khuất Đô cũng được xem như công tử phong lưu. Hắn tiếp nhận chức Tổng đốc tám đại doanh của Hề Cố An, trong án kênh rạch công cũng từng xuống lội nước, khi đó còn rất tôn trọng Tiêu Trì Dã.
Cổ họng Cao Trọng Hùng chua chát, mấy lần hắn muốn mở miệng nhưng đều không nói ra lời.
Hàn Cận sững sờ nhìn Cao Trọng Hùng, đột nhiên lao tới chộp lấy rào chắn, khóc nức nở hỏi: “Ca ca ta tới rồi sao? Là ca ca ta tới rồi sao?”